Chiến cuộc vùng Krym Chiến_tranh_Krym

Bao vây Sevastopol

Sevastopol thất thủ
Quân Pháp và Nga đánh giáp lá cà

Ngày 17 tháng 10 năm 1854, quân Anh-Pháp đổ bộ lên bán đảo Krym bao vây thủ phủ Sevastopol là căn cứ chính của hạm đội Đế quốc Nga tại Biển Đen với mục tiêu là ngăn chặn không cho chiến hạm Nga vào Địa Trung Hải. Trên đường tới Sevastopol liên quân gặp một đạo quân Nga đang đóng trên các điểm cao tại Alma và mau chóng đánh tan đạo quân này. Dù vậy chiến thắng ở Alma cho thấy Liên quân có ưu thế vượt trội về kỹ thuật hơn là kỷ luật hay tài thao lược.[21]

Binh sĩ người Scotland của Anh đánh bại cuộc tấn công của kỵ binh Nga

Trong nỗ lực giải vây cho Sevastopol, quân Nga mở cuộc tiến công lớn vào Liên quân tại Inkerman nhưng thất bại. Quân Nga chết và bị thương lên tới 12.000 so với 3.000 người của Liên quân.[22] Quân Nga phải huy động chiến thuyền, dùng pháo hải quân và cho thủy thủ chiến đấu như lính thủy đánh bộ. Quân đội Nga thiệt hại 4 chiến hạm lớn (3 tầng, 110 súng), 12 chiến hạm trung (2 tầng, 60 súng) và nhiều chiến thuyền nhỏ. Đề đốc Nga là Pavel Stepanovich Nakhimov bị bắn trúng đầu và chết ngày 30 tháng 6 năm 1855. Sevastopol thất thủ vào ngày 11 tháng 9 năm 1855, sau gần 11 tháng bị bao vây.

Cùng năm, quân Nga bao vây và chiếm đồn Kars của Ottoman.

Chiến trường biển Baltic

Những trận đánh ở Krym được nói đến nhiều, trong khi chiến cuộc trên biển Baltic thường ít được nhắc tới mặc dầu xảy ra gần thủ đô Nga Sankt Peterburg. Lúc đầu các phe tham chiến bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hải quân Nga tuy kém lực lượng nhưng lại đóng trú quanh những khu phòng thủ kiên cố như đồn Kronstadt. Bên kia thì Đề đốc Anh là Charles Napier và Đề đốc Pháp là Parseval-Deschènes lại ngại tấn công, và chỉ có thể ngăn chặn các tàu buôn Nga và công kích các đồn phòng thủ nhỏ của Nga dọc bờ biển Phần Lan. Anh-Pháp tấn công và tiêu diệt đồn BomarsundSlava nhưng ở các đồn khác lại bị đánh bật ra.

Bomarsund bị dội bom

Trong những đợt tấn công này, quân Anh đốt phá hai vùng OuluRaahe và bị thế giới lên tiếng phản đối. Tin lan về đến Anh và nghị sĩ quốc hội Thomas Gibson đòi Hạ viện Anh hạch trách các đề đốc hải quân đang tham chiến về những hành động tàn phá tài sản của người dân vô tội.

Ở Nga, kinh tế từ từ bị suy yếu vì buôn bán theo đường biển bị bế tắc, và quân Nga cũng do đó mà giảm sút tinh nhuệ.

Mùa thu năm này, hạm đội Anh do chiến hạm Miranda dẫn đầu kéo từ biển Baltic ra biển Trắng và pháo kích hai tỉnh KolaSolovki. Kola bị tàn phá hoàn toàn. Quân Anh tấn công Arkhangelsk nhưng thất bại.

Năm 1855, hơn 1.000 đại bác của hải quân đồng minh Anh-Pháp bắn hơn 20 nghìn viên pháo vào đồn phòng thủ Sveaborg của Nga gần Helsinki. Nhưng chỉ huy trưởng Nga Viktor Poplonsky đem tàu chiến Rossiya chặn giữ cửa biển, không cho quân Anh-Pháp vào. Trong khi đó quân Anh-Pháp phá mãi không xong, phải huy động thêm lực lượng để tấn công lần nữa nhưng chưa kịp thì chiến tranh chấm dứt.

"Tu viện Solovetsky ở biển Trắng
bị hải quân Hoàng gia Anh tấn công"

Sức kháng cự của quân Nga phần lớn do khả năng sử dụng mìn ngầm trên biển tại Kronstadt và Sevastopol. Thủy lôi trong chiến thuật hải quân ngày nay có lẽ bắt đầu từ chiến tranh vùng Krym[23].

Thái Bình Dương

Tranh chấp giữa các đế quốc châu Âu cũng diễn ra ở Thái Bình Dương. Hạm đội Anh-Pháp do Đề đốc David PriceFebrier-Despointes chỉ huy bao vây đoàn tàu chiến Nga do Đề đốc Yevfimy Vasilyevich Putyatin chỉ huy tại Petropavlovsk thuộc bán đảo Kamchatka. Tháng 9 năm 1854, sau khi dùng súng từ chiếm hạm bắn nát thành phố, hơn 800 quân lính Anh-Pháp đổ bộ nhưng bị phản kích mãnh liệt và phải rút lui, chịu thiệt hại nặng nề. Đến mùa xuân năm 1855, quân Nga rút lui khi quân đồng mình đem tiếp viện đến tấn công lần nữa.

Ý ủng hộ Đồng minh

Trong khi hô hào phong trào thống nhất nước Ý, Camillo Benso nghe lời Victor Emmanuel II gởi quân lính theo ủng hộ Anh-Pháp. Mục đích của Camillo Benso là vuốt ve Pháp để tăng thế lực cho khu vực Piedmont của Ý, và qua đó có thể Piedmont được hội nhập vào nước Ý thống nhất.

Chiến tranh kết thúc

Đế quốc Ottoman mất phần lớn lãnh thổ (màu vàng) sau các cuộc phân tranh 1856-78

Sau khi nhận được tin về thảm bại tại Sevastopol, Nga hoàng Nikolai I trở nên rất buồn phiền. Ông bị viêm phổi và qua đời ngày 2 tháng 3 năm 1855, con trai là Aleksandr II lên thay. Sau khi Sevastopol thất thủ, Nga bắt đầu thương lượng hòa bình với phe đồng minh và ký hòa ước tại Paris năm 1856. Quy ước hàng hải giữa Nga và Ottoman định lại ranh giới chủ quyền vùng biển Đen. Nga phải chịu thiệt thòi vì hải quân Nga sẽ không còn khả năng kiểm soát khu biển như trước đó. Ngoài ra, theo hòa ước Paris Đế quốc Ottoman được các cường quốc châu Âu công nhận.